Thời Minh thuộc Tiền_tệ_Việt_Nam_thời_Bắc_thuộc

Thời Trần, mỗi quan được tính bằng 690-700 đồng. Từ khi nhà Minh đánh chiếm nước Đại Ngu, áp dụng tỉ lệ 1 quan = 1000 đồng.

Thuế buôn, thuế đánh cá và phí thuê ruộng được tính bằng tiền đồng; những thứ thuế khác như thuế tằm, thuế ruộng tư thì thu bằng lúa gạo, tơ tằm; thuế vàng bạc ở Thái Nguyên, Nghệ An, Lạng Sơn được thu bằng trọng lượng sản vật[7].

Số tiền thuế thu được vào năm 1417 được Cao Hùng Trưng nêu trong sách An Nam chí nguyên như sau[8]:

  • Thuế buôn: tổng cộng 34.641 quan 477 đồng, gồm 3.902 quan 556 đồng tiền đồng (chiếm 12,4%) và 30.558 quan 921 đồng tiền giấy (88,6%)
  • Tiền thuê mướn ruộng công: tổng cộng 512 quan 130 đồng tiên giấy và tiền đồng (không rõ từng loại)
  • Thuế đánh cá không cung cấp được tổng số, chỉ nêu riêng lẻ từng phủ không đầy đủ:
    • Giao châu: 6.160 quan 400 đồng, gồm 4.302 quan 220 đồng tiền giấy (70%) và 1.87 quan 880 đồng tiền đồng (30%)
    • Bắc Giang: 985 quan 540 đồng, gồm 773 quan 600 đồng tiền giấy (62,2%) và 611 quan 740 đồng tiền đồng (37,8%)
    • Lạng Giang: 1.064 quan, gồm 740 quan 300 đồng tiền giấy (69,5%) và 611 quan 740 đồng tiền đồng (37,8%)
    • Tân An: 608 quan 420 đồng, gồm 303 quan 960 đồng tiền giấy (50%) và 304 quan 462 đồng tiền đồng (50%)

Trung Quốc vào thời nhà Minh sử dụng cùng lúc cả tiền kim loại và tiền giấy, trong đó tiền giấy khá được chuộng dùng. Tiền giấy nhà Minh đương thời gọi là "Đại Minh thông hành bảo sao". Tại lãnh thổ Việt Nam khi đó tiền giấy cũng lưu hành khá thông dụng[9].